Tìm kiếm Blog này

Thứ Bảy, 21 tháng 7, 2012

Hội thảo " mổ thoát vị đĩa đệm thắt lưng bằng nội soi qua đường liên bản sống "

Ngày 21/07/2012, tại phòng khám đa khoa quốc tế Exson đã diễn ra hội thảo "mổ thoát vị đĩa đệm thắt lưng bằng nội soi qua cửa sổ gian bản sống". Tham dự hội thảo có 50 khách mời là các bác sĩ chuyên môn đến từ các tỉnh thành quan tâm trong lĩnh vực nội soi cột sống trong cả nước (Hà Nội, Đà Nẵng, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Tp.HCM, Kiên Giang,...). Đặc biệt có sự tham dự của P.GS-TS-Bs. Võ Tấn Sơn - Giám đốc BV Đại Học Y Dược Tp.HCM.



Hội thảo khai mạc hồi 9h00' ngày 21/07/2012, ngay sau buổi khai mạc là bài báo cáo về phương pháp "mổ thoát vị đĩa đệm thắt lưng bằng nội soi qua cửa sổ gian bản sống" của Ts-Bs.Võ Xuân Sơn (TT cột sống Exson) và Bs.Hoàng Quốc Chính (BV chấn thương chỉnh hình Tp.HCM). Ngay sau buổi giải lao, các đại biểu tham gia thảo luận qua hội trường 2 ca mổ thị phạm được truyền hình ảnh trực tiếp tại phòng mổ của BV Ngọc Linh do Bs.Xuân Sơn thực hiện,hai ca mổ kết thúc sau 02 giờ, thành công tốt đẹp!


Hội thảo diễn ra với sự tài trợ của đơn vị phân phối dụng cụ phẫu thuật nội soi cột sống hãng Richard Wolf - CHLB Đức tại thị trường Việt Nam


Bản tin VTV1 về hội thảo

Thứ Sáu, 20 tháng 7, 2012

Kỹ thuật mổ nội soi thoát vị đĩa đệm qua cửa sổ gian bản sống

The full-endoscopic interlaminar technique

 
  Tiếp cận trực tiếp khoang màng cứng dưới sự quan sát nội soi liên tục là điều kiện đầu tiên để thực hiện phẫu thuật trong ống sống. Khi thực hiện qua lỗ liên hợp, đường bên các cấu trúc xương và thần kinh đôi khi là những yếu tố làm hạn chế khả năng di động và do đó cũng làn hạn chế chỉ định khi sử dụng đường tiếp cận này. Ngoài ra khi phẫu thuật ở đoạn thấp của cột sống thắt lưng, đường bên cũng có thể bị cản trở bởi xương chậu. Những hạn chế này làm cho không thể thực hiện việc phẫu thuật nội soi bằng đường bên qua lỗ liên hợp trong vài bệnh lý .

Nhằm làm giảm thương tổn các cấu trúc trong ống sống gây ra do phẫu thuật, chúng ta nên tận dụng các đặc điểm giải phẫu cấu trúc trong việc tạo đường vào. Ngoài lỗ liện hợp, ta có thể sử dụng cửa sổ gian bản sống. Sử dụng cửa sổ gian bản sống trong phẫu thuật cốt sống thắt lưng đã được sử dụng phổ biến từ lâu . Nhiều phương pháp khác nhau được sử dụng trong những năm sau. Ví dụ sinh thiết cột sống qua đường sau bên vào cuối những năm 40, ly giải nhân đệm để giải áp trong nhân đệm vào cuối những năm 70. Kiểm tra khoang gian đốt sống bằng nội soi sau mổ giải áp được thực hiện vào đầu những năm 80. Phẫu thuật nội soi được thực hiện chủ yếu với kỹ thuật vào lỗ liên hợp bằng đường sau bên. Kỹ thuật vi phẫu thực hiện với kính hiển vi được phát triển vào cuối những năm 70 và trở thành tiêu chuẩn vàng trong giải áp ống sống. Kỹ thuật vi phẫu nội soi được thực hiện vào cuối những năm 90. Trong kỹ thuật này có sử dụng ống kính soi để quan sát và hiển thị phẫu trường trên màn hình.

Với kỹ thuật thường quy, phải mở ống sống để tiếp cận khoang màng cứng và cần phải cắt dây chằng vàng và xương đủ rộng để có thể quan sát ống sống và thực hiện phẫu thuật với dụng cụ. Việc này gây ra những thương tổn cấu trúc trong việc tạo đường vào, cắt những cấu trúc giữ vững cột sống và đặc biệt là tạo sẹo gây khó khăn cho trường hợp cần mổ lại. Kính hiển vi có vai trò giúp giảm kích thước đường vào và giúp quan sát tốt hơn. Tuy vậy việc cắt các cấu trúc vẫn không thể tránh khỏi. Kỹ thuật vi phẫu nội soi ít gây tổn thương hơn khi tạo đường vào so với kỹ thuật vi phẫu, nhưng vẫn có hạn chế là điều kiện quan sát và hình ảnh kém. Nó không hoàn toàn là kỹ thuật nội soi. Điểm chung của các kỹ thuật này là đường vào lớn hơn mức cần thiết cho các dụng cụ có thể thực hiện thao tác trong ống sống. Vì vậy, kỹ thuật mổ nội soi qua gian bản sống đã được phát triển trong những năm gần đây và khai thác những ưu điểm đã được biết đến của nội soi trong phẫu thuật qua lỗ liên hợp và phẫu thuật nội soi khớp.
Hệ thống hình ảnh và ánh sáng có góc phẫu trường 25 độ giúp giảm tổn thương khi tiếp cận và cấu trúc trong ống sống. Sự tưới rửa liên tục giúp cho điều kiện quan sát hoàn hảo. Khả năng di chuyển và ứng dụng của ống soi phụ thuộc vào kỹ thuật điều khiển tay cầm của phẫu thuật viên (theo kỹ thuật joystick).Cấu trúc thần kinh được bảo vệ nhờ vỏ soi có đầu vát chéo. Với việc sử dụng thành công các dụng cụ thế hệ mới này, thì đây thự sự là kỹ thuật phẫu thuật ít xâm lấn.

Chỉ định, chính là những bệnh lý trong ống sống, phải lưu ý kích kích thước gian bản sống, có thể làm trở ngạo việc đưa dụng cụ, nếu cần có thể cắt xương mà không cần cắt dây chằng vàng và mỏm khớp sau (Nói chung cần tránh cắt xương tuy nhiên vẫn có khi bắt buộc phải thực hiện khi có hẹp ống sống). Cắt giây chằng vàng có thể giới hạn kích thước vài milimet là đủ vì nó có tính đàn hồi. Khả năng di động để tiếp cận phía đối bên tương tự với phẫu thuật truyền thống. Kỹ thuật phẫn thuật qua gian bản sống cho phép phẫu thuật bệnh lý trong ống sống với sang chấn do việc tạo đường vào ở mức tối thiểu. Phẫu thuật qua lỗ liên hợp nói chung phù hợp với công việc trong nhân đệm và trong hoặc ngoài lỗ liên hợp. Kỹ thuật qua lỗ liên hợp bị phụ thuộc vào nhiều yếu tố giới hạn hơn so với kỹ thuật qua gian bản sống, tuy nhiên nó lại ít gây tổn thương mô. Lực chọn tùy thuộc vào giải phẩu và bệnh lý, tỷ lệ giửa phẫu thuật qua lổ liên hợp và qua gian bản sống trong thực tế lâm sàng là 40/60.
 KỸ THUẬT MỔ:
1.Tư thế bệnh nhân
Bệnh nhân nằm sấp trên bàn mổ thấu quang, gối kê ở vùng bụng dưới và ngực.

 2.Xác định đường vào của dụng cụ.
Đường vào được xác định dựa trên mốc giải phẩu nhờ hình ảnh C-arm tư thế sau trước và cân nhắc bệnh lý. Điểm rạch da ở giữa cửa sổ gian bản sống để cho phép đi vào ở vị trí bên, dưới và theo hướng của mỏm gai.
 
  3.Tạo đường vào.
Sau khi xác định điểm vào và rạch da, dụng cụ nong được đẩy vào cho đến khi chạm dây chằng vàng dưới sự kiểm soát bằng C-arm ở tư thế chụp sau trước. Các bước tiếp theo được thực hiện hiện dưới sự kiểm soát bằng C-arm chụp ở tư thế bên. Vỏ soi có đầu vát chéo được đẩy vào qua nong cho đến dây chằng vàng sau đó rút nong ra.


 4. Thực hiện phẫu thuật
Ống kính soi được đưa vào qua vỏ soi, dụng cụ phẫu thuật được đưa vào qua kênh dụng cụ của ống kính soi dưới sự kiểm soát bằng hình ảnh nội soi và có đường nước tưới rửa liên tục. Khi mở được dây chằng vàng chúng ta đã thâm nhập vào ống sống. Khả năng di động cao nhờ kỹ thuật cầm ống soi kiểu joystick. Vỏ soi có đầu vát chéo được sử dụng như dụng cụ thứ hai và có thể xoay được nhằm bảo vệ cấu trúc thần kinh.


 
 5.Cắt xương
Đôi khi phẫu thuật đòi hỏi cắt xương để tăng khả năng di động hoặc thoát vị có mảnh rời hoặc khi cửa sổ gian bản sống hẹp. Nên bắt đầu cắt xương ở phần trên của mặt khớp dưới. Mức độ cắt tùy thuộc vào bệnh lý.

 
                                                                                              
Nguồn: "http://thanhphuongco.blogspot.com"

VIDEO Phẫu thuật nội soi thoát vị đĩa đệm qua cửa sổ gian bản sống:


Chủ Nhật, 3 tháng 6, 2012

Tỉnh Bình Thuận triển khai phẫu thuật nội soi ổ bụng cho các đơn vị tuyến huyện

Từ ngày 28/05 - 01/06, Được sự giúp đỡ của bệnh viện Đại Học Y Dược Tp.HCM, bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Thuận (1816) và sự phối hợp của công ty chúng tôi (nhà phân phối hãng thiết bị nội soi R.Wolf - CHLB Đức), sở y tế tỉnh Bình Thuận đã bàn giao và triển khai hệ thống phẫu thuật nội soi ổ bụng tổng quát cho 03 đơn vị trong tỉnh, gồm: BV thị xã Lagi, BV huyện Tánh Linh và BV đa khoa khu vực Nam Bình Thuận.
Việc đưa vào sử dụng các trang thiết bị y tế hiện đại nói chung và hệ thống phẫu thuật nội soi ổ bụng nói riêng  cho tuyến dưới đã góp phần nâng cao chăm sóc sức khỏe người dân địa phương, đặc biệt là giảm đáng kể áp lực quá tải cho các bệnh viện tuyến trên.

Dưới đây là một số hình ảnh triển khai tại các đơn vị:

 









Thứ Hai, 5 tháng 12, 2011

Nội soi thực quản (esophagoscopy)



Thực quản là một phần của hệ tiêu hóa, một đầu gắn với dạ dày,dầu kia gắn với thanh quản, có đường kính từ 1-1,5cm. Bao gồm các cơ, màng và dịch nhầy vận chuyển thức ăn từ miện đến dạ dày. Chiều dài thực quản của người lớn từ 20-34 cm. Nó có 3 vị trí thắt hẹp rất quan trọng cho nội soi:
- Vị trí 1: Ngay lối vào thực quản, cách hàm trên của răng 14cm (12-16cm).
Vị trí 2Tại vị trí giao giữa cung động mạch chủ và phế quản chính trái, cách hàm răng trên khoảng 27cm (22-29cm),
Vị trí 3: Tại vị trí vách ngăn bởi cơ hoành, đoạn kế với dạ dày, cách răng trên 41cm (32-50cm)

Chỉ định cho nội soi thực quản:
- Nghi ngờ mắc dị vật
- Hình thành Polyp
Hẹp hoặc ghẹn khi co thắt
- Soi chẩn đoán túi thừa
Nghi bị u thực quản
- Làm sáng tỏ các tác nhân gây ảnh hưởng đến thành thực quản.
- Quá trình co thắt tim
- Nghi ngờ dãn tĩnh mạch
- Sinh thiết

Chống chỉ định nội soi thực quản ống cứng:
- Tổn thương vùng cổ và ngực
- Bị bệnh tổng quát mà không được phép gây mê

Dụng cụ và thiết bị nội soi thực quản:
Trong nội soi thực quản chúng ta có thể sử dụng cả nội soi ống cứng và ống mềm,mỗi loại có một số các ưu nhược điểm khác nhau (trường nhìn, góc quan sát, khả năng can thiệt, khả năng lấy dị vật, khả năng sinh thiết,...). Ở đây chúng ta chỉ nói đến các các dụng cụ nội soi thực quản ống cứng, bao gồm người lớn và trẻ em, với các dụng cụ có kính thước và chiều dài khác nhau. Với các dụng cụ chính sau:
- Ống kính soi thực quản (Oesophagoscope Telescopes). Bao gồm các loại có đường kính từ 2.7mm; 3.4mm; 4mm và 5.5mm với các trường nhìn khác nhau 0°, 30°, 60°, 70°, 90°.
- Các ống soi thực quản (Oesophagoscope Tubes) các cỡ được thiết kế bởi "Wolf" ứng dụng ưu biệt
- Kềm gắp bao gồm kềm gắp bông, kềm gắp dị vật, kềm sinh thiết hay kềm gắp dị vật dạng Optical Forceps,...
- Ngoài ra cần thêm ống hút, và một số phụ kiện khác: bóng kép,van,...



Chủ Nhật, 20 tháng 11, 2011

Máy tán sỏi laser MegaPulse 30+

MegaPulse 30+  Năng lượng của chúng tôi - Sự lựa chọn của bạn


Là thế hệ máy tán sỏi nội soi mới nhất sử dụng loại Laser Holmium-YAG (Ho:YAG) của hãng Richard Wolf được giới thiệu tại hội nghị niệu khoa Đức năm 2011. 
Với nhiều tính năng ưu việt:
- Công suất tối đa lên đến 30W,
- Dãy năng lượng lớn lên đến 4.000 mJ, cho phép tùy chỉnh theo từng trường hợp
- Tần số xung điều chỉnh được với tần số lớn nhất 25 Hz
- Màn hình cảm ứng TFT
- Tự động nhận biết kích thước que dẫn laser
- Cài đặt và lưu lại chế độ sử dụng riêng


Hoạt động mạnh mẽ, hiệu quả:
Tán sỏi (hiệu quả nhanh chóng với mọi loại trên mọi vị trí đường tiết niệu và đường mật)
- Cầm máu
- Cắt đốt  (ứng dụng trong cắt đốt u xơ tiền liệt tuyến)


Ứng dụng đa dạng nhiều chuyên khoa:
Tiết niệu,
- Tổng quát, 
- Tai mũi họng,
- Phụ khoa, 
- Khớp,
- Tiêu hóa, 
- Cột sống


VIDEO giới thiệu

Thứ Năm, 8 tháng 9, 2011

NỘI SOI LỒNG NGỰC



Trong lịch sử ngoại khoa, có lẽ chưa có sự thay đổi trang thiết bị nào ảnh hưởng đến phương pháp giải phẫu sâu sắc như phẫu thuật qua ngả nội soi. Ngay cả các động tác phẫu thuật căn bản như: bóc tách, khâu, cột chỉ v.v…cũng thay đổi hoàn toàn so với phẫu thuật kinh điển vì được thực hiện qua dụng cụ với sự quan sát trên màn hình, thay vì thực hiện bằng tay trong một không gian ba chiều. Nếu năm 1987 là năm Mouret tại Pháp đã thực hiện trường hợp cắt túi mật qua nội soi đầu tiên trên Thế giới, tại Mỹ vẫn chưa có trường hợp cắt túi mật nào được thực hiện qua nội soi, thì đến năm 1992 đã có tới 80% các trường hợp cắt túi mật được thực hiện bằng kỹ thuật nội soi ổ bụng.

Phẫu thuật qua ngả nội soi đã thực sự là một cuộc cách mạng trong ngành phẫu thuật. Trong những năm qua đã có một sự bùng nổ về phẫu thuật nội soi vì những ưu điểm rất lớn của kỹ thuật này: Hậu phẫu nhẹ nhàng, thời gian nằm bệnh viện ngắn và tính thẩm mỹ cao v.v…

Sự phát triển của phẫu thuật nội soi đã phải trải qua một quãng thời gian khá dài. Ngay từ thời Hippocrates (năm 460-375 T.C.N) các thầy thuốc đã cố gắng tìm mọi cách để quan sát các lỗ và các hốc tự nhiên của cơ thể. Hippocrates, ông tổ của ngành Y, đã dùng một dụng cụ để banh trực tràng khi thăm khám. Archigenes, một Bác sĩ người Sirya (95-117 TCN) đã sáng chế ra dụng cụ thăm khám âm đạo. Điều rõ ràng là các dụng cụ này thô sơ và không đủ ánh sáng nên không thể đưa sâu vào bên trong các cơ quan để quan sát. Do đó, suốt 2.000 năm qua, kỹ thuật nội soi không phát triển được.

Albukasim (936 –1013), một thầy thuốc người Ả Rập là người đầu tiên dùng ánh sáng phản chiếu để quan sát cổ tử cung. Năm 1600, Peter Borell, người Pháp đã chế ra gương lõm để phản chiếu và hội tụ ánh sáng vào cơ quan cần quan sát. Sau đó Arnaud, một bác sĩ sản khoa đã dùng đèn lồng để quan sát cổ tử cung. Tuy nhiên, phải đến đầu thế kỷ thứ 19, kỹ thuật nội soi mới bắt đầu phát triển cho đến ngày hôm nay nhờ vào 3 bước đột phá quan trọng:
- Bước đột phá thứ nhất: là sự phát minh ra bóng đèn đốt nóng bằng dây tóc của Thomas Edison và sự phát triển của hệ thống thấu kính dùng cho kính soi vào thập niên 1870-1880.
- Bước đột phá thứ hai: là sự phát minh ra hệ thống thấu kính vào cuối thập niên 1950 cùng với sợi quang dẫn truyền ánh sáng lạnh vào đầu thập niên 1960.
- Bước đột phá thứ ba: chính là sự phát triển của các mini-camera (máy quay phim nhỏ) có vi mạch điện toán vào thập niên 1980

Lịch sử phát triển của nội soi lồng ngực:
Nội soi lồng ngực được tiến hành ngay trong những năm đầu tiên của thế kỷ 20 bởi một bác sĩ Châu Âu là H.C Jacobeus, người đã sử dụng ống kính soi bàng quang để quan sát khoang Lồng ngực với gây tê tại chỗ. Ông còn là người đầu tiên sử dụng kỹ thuật này gỡ dính để làm xẹp phổi trong điều trị bệnh lao. Từ đó đến nay, kỹ thuật nội soi chủ yếu được dùng để chẩn đoán các bệnh của phổi và lồng ngực với ống soi cứng tiêu chuẩn như: ống soi phế quản, ống soi trung thất v.v…
Năm 1976, Lewis đã dùng ống soi phế quản cứng hoặc ống soi trung thất mềm để chẩn đoán trực tiếp các bệnh ở lồng ngực của 40 bệnh nhân với gây tê tại chỗ mà không có biến chứng nào. Vấn đề này đã tạo tiền đề cho sự chú ý đến kỹ thuật nội soi Lồng ngực trong các Phẫu thuật viên ở các nước Âu – Mỹ.
Tại Việt Nam, phẫu thuật nội soi Lồng ngực được áp dụng lần đầu tiên vào năm 1996, tại bệnh viện Bình Dân với phẫu thuật cắt hạch thần kinh giao cảm ngực để điều trị chứng tăng tiết mồ hôi tay. Những năm sau đó, đã có rất nhiều bệnh viện khác trong cả nước cũng như tại thành phố Hồ Chí Minh như: bệnh viện Chợ Rẫy, bệnh viện Nhân Dân Gia Định, bệnh viện Trưng Vương đã triển khai phẫu thuật này nhằm điều trị rất nhiều loại bệnh khác nhau trong lĩnh vực Lồng ngực và Tim mạch. Trong quá trình thực hiện, đã có nhiều cải tiến về tư thế bệnh nhân, về dụng cụ và phương pháp phẫu thuật, nhiều công trình nghiên cứu về lĩnh vực này đã được báo cáo và đăng trên các tạp chí Y học có uy tín
Hiện nay, kỹ thuật nội soi lồng ngực đã và đang có những bước phát triển vượt bậc nhờ vào 3 tiến bộ:
- Thứ nhất: sự cải tiến của hệ thống thấu kính nội soi kết hợp với sự phát triển của hệ thống định hình lập thể và máy quay camera cực nhỏ vào những năm đầu của thập niên 80, cho phép phẫu thuật viên quan sát toàn cảnh một nửa lồng ngực thay vì xem qua một thị trường hẹp như trước đây.
- Thứ hai: sự tiến bộ của kỹ thuật gây mê với hô hấp chọn lọc một bên phổi tạo điều kiện cho việc thao tác kính soi và dụng cụ phẫu thuật được dễ dàng hơn.
- Thứ ba: ngày càng có nhiều dụng cụ chuyên dùng cho phẫu thuật nội soi lồng ngực được sáng chế, tạo điều kiện cho người phẫu thuật viên có thể thực hiện được nhiều loại phẫu thuật.
Hiện nay, các nhà nghiên cứu đã chế tạo ra các dụng cụ nội soi cực nhỏ với đường kính từ 3-5 mm, giúp cho phẫu thuật viên thao tác được dễ dàng hơn, đường vào nhỏ hơn, bệnh nhân ít bị đau hậu phẫu hơn.

Các nguyên lý và kỹ thuật cơ bản trong phẫu thuật nội soi lồng ngực
Khi thao tác trong ổ bụng đòi hỏi phải có bơm khí CO2 để tạo khoảng trống giữa thành bụng và các cơ quan nội tạng. Nhưng trong lồng ngực, nhờ những cấu trúc khung xương cứng tạo ra khoảng trống khi phổi xẹp. Thông khí một bên phổi bên đối diện thực hiện được nhờ ống nội khí quản hai nòng cho phép phổi xẹp bên phẫu thuật, áp lực âm trong khoang màng phổi sẽ mất đi ngay khi rạch vào khoang liên sườn.
Sử dụng ống nội khí quản có thông khí chọn lọc dòi hỏi phải gây mê. Trong hầu hết các phẫu thuật được thực hiện nhờ kỹ thuật này. Tuy nhiên, trong một số ít trường hợp chỉ cần gây tê tại chỗ và phổi xẹp tự nhiên ngay khi có sự thông thương khoang màng phổi với bên ngoài. Toàn bộ khoang lồng ngực được quan sát tốt khi phổi xẹp hoàn toàn. Trong hầu hết các phẫu thuật, bệnh nhân được đặt tư thế nằm nghiêng và lồng ngực được chuẩn bị như những trường hợp mở ngực thông thường. Theo dõi độ bão hòa Oxy trong máu qua monitor. Vị trí khởi đầu rạch da để đặt camera khoảng 1 cm ở trên khoang liên sườn hơi lệch ra sau, xuống dưới giúp chúng ta định hướng cấu trúc trong khoang lồng ngực. Trường hợp có dầy dính màng phổi, phẫu thuật viên phải cẩn thận tách màng phổi bằng ngón tay trước khi đưa trocar vào. Tùy thuộc loại phẫu thuật có thể chọn thêm vị trí để rạch thêm một, hai hay ba lỗ để đưa dụng cụ vào thao tác cho phù hợp.
Tác giả Landreneau và cộng sự đưa ra một số nguyên tắc(41)
Những trocar phụ nên được đặt dưới hướng nhìn của ống kính nội soi lồng ngực.
Các trocar nên đặt cách thương tổn một khoảng để có một khoảng trống thao tác trên cơ quan.
Tránh đặt các dụng cụ quá gần nhau gây ra sự “cản trở” thao tác, do đó các lổ đặt dụng cụ nên cách xa nhau. Tránh các hiện tượng có hình ảnh đối xứng gương do đặt các dụng cụ và ống kính ống kính nội soi lồng ngực cùng một góc 180 độ, nghĩa là nguồn sáng và dụng cụ tiếp cận sang thương cùng một hướng.
Thao tác các dụng cụ và camera nên theo thứ tự hơn là cùng một lúc, các dụng cụ chỉ được thao tác khi nhìn thấy trực tiếp dưới ống kính nội soi lồng ngực.

Chỉ định phẫu thuật nội soi lồng ngực
1.Nội soi chẩn đoán
* Các bệnh của màng phổi:
- Tràn dịch màng phổi tái phát và khu trú, ngoại trừ tràn dịch màng phổi do lao hoặc ung thư.
- Sinh thiết màng phổi
* Bệnh nhu mô phổi:
- Thâm nhiễm phổi hai bên.
- Các hạch vùng rốn phổi.
- Nốt đơn độc của phổi
* U trung thất:
- U vùng trung thất trước và trung thất sau.
- Các hạch phổi vùng trung thất không khảo sát được bằng ống soi trung thất thông thường, đặc biệt là các hạch ở phía sau khí quản ở những bệnh nhân có nguy cơ cao.
- Cấu trúc mô Lymphoma.
* Phân giai đoạn trong ung thư phổi:
- Xác định tình trạng di căn hạch ở các giai đoạn trong ung thư phổi để có cơ sở phân loại một cách chính xác.
- Xác định tình trạng xâm lấn của ung thư phổi vào các cơ quan lân cận: màng ngoài tim, thần kinh hoành, mạch máu lớn, thành ngực v.v…chính xác hơn
2.Nội soi lồng ngực điều trị:
* Bệnh màng phổi:
- Tràn dịch màng phổi tái phát: liệu pháp nội soi làm xơ hóa với bột Talc,Bléomycin,Tetracycline, Iodo povidine..
- Viêm mủ màng phổi: đặc biệt dẫn lưu trong viêm mủ màng phổi đóng kén, khu trú.
- Phổi bị giam hãm: bóc vỏ màng phổi sớm
- Tràn máu màng phổi, đặc biệt là máu đông xoang màng phổi (lấy hết máu đông, khống chế chảy máu và dẫn lưu).
* Tràn khí màng phổi tự phát:
- Những trường hợp rò rỉ khí kéo dài.
- Tràn khí màng phổi tái phát nhiều lần.
- Tràn khí màng phổi có áp lực.
- Tràn khí màng phổi hai bên.
- Tràn khí màng phổi ở những người thường đi du lịch.
- Tràn khí màng phổi ở những người làm những nghề độc hại: phi hành đoàn, thợ lặn v.v…
* U màng phổi:
- Tràn dịch dưỡng chấp do tổn thương ống ngực
- Mở cửa sổ ngoài màng tim: Tràn dịch màng ngoài tim tái phát, tràn dịch ngoài tim có hội chứng bị chèn ép
* Cắt hạch thần kinh giao cảm ngực:
- Trong điều trị viêm tắc động mạch ngoại biên mạn tính chi trên.
- Trong điều trị hội chứng Raynaud.
- Chứng tăng tiết mồ hôi tay.
- Rối loạn phản xạ giao cảm (hội chứng đau chi trên)
- Cắt thần kinh tạng (Splanchnicectomy) trong đau do ung thư tụy và viêm tụy mạn
* Cắt dây thần kinh số X qua đường ngực: Tại thân trong điều trị loét dạ dày tá tràng tái phát
* Cắt bỏ những di căn ngoại vi trên phổi.
* Cắt phổi: cắt phổi hình chêm, cắt thùy phổi, cắt phổi toàn bộ
* Cắt bỏ thực quản qua ngả nội soi lồng ngực,phẫu thuật Heller điều trị chứng co thắt tâm vị.
* Cắt bỏ u trung thất: u trung thất sau, (neurinoma), u nang trung thất, cắt bỏ tuyến hung trong điều trị nhược cơ.
* Bệnh ống động mạch: cắt và cột ống động mạch ở trẻ em
* Bệnh lý cột sống: dẫn lưu ổ áp xe, sinh thiết, tổn thương thân sống, cắt đĩa đệm, giải phóng phía trước trong bệnh gù vẹo cột sống.

Chống chỉ định phẫu thuật nội soi lồng ngực
Nội soi lồng ngực ít có chống chỉ định. Những chống chỉ định đặc biệt của nội soi lồng ngực: dầy dính màng phổi toàn bộ, những thương tổn không có khả năng cắt bỏ, bệnh nhân không có khả năng chịu đựng thông khí một phổi.
Những chống chỉ định của một cuộc mổ thông thường: rối loạn đông máu khó điều chỉnh, huyết động học không ổn định, sốc giảm thể tích, sốc tim, thiếu máu cơ tim, nhồi máu cơ tim mới.

Biến chứng của phẫu thuật nội soi lồng ngực
Biến chứng trong lúc mổ:
- Biến chứng liên quan đến ống nội khí quản hai nòng
- Liên quan việc đặt ống nội khí quản: chấn thương và đau vùng hầu, viêm thanh quản do sang chấn, vỡ bong bóng, ống nội khí quản sai vị trí làm không thông khí một bên phổi được, tràn khí màng phổi áp lực.
- Liên quan đến vị trí bất thường của ống nội khí quản: vỡ khí phế quản
- Biến chứng liên quan với thông khí một phổi: biến chứng ở phổi hay do bơm khí CO2 ảnh hưởng đến trao đổi khí ở phổi: giảm hàm lượng O2 máu, tăng nồng độ CO2 máu.
- Biến chứng tim mạch hiếm xảy ra, các rối loạn nhịp: nhịp nhanh xoang, nhịp nhanh thất, rung nhĩ, loạn nhịp nhĩ, nhịp nhanh kịch phát trên thất..
- Chuyển sang mở ngực hở: để cắt rộng hơn, do dầy dính màng phổi không tìm được sang thương, tổn thương khu trú ở trung tâm hay tổn thương quá lớn không cắt qua nội soi được, chảy máu quá nhiều do tổn thương mạch máu lớn.
Biến chứng sau mổ:
Ở phổi:
- Rò rỉ khí: tràn khí dưới da, tràn khí màng phổi tái diễn tái phát.
- Hội chứng “Down lung”: tình trạng tăng tiết, xẹp phổi, viêm phổi xảy ra sau thông khí một phổi ở một bên hay đôi bên
- Nhiễm trùng chỗ đặt trocar.
- Hội chứng Horner trong cắt thân kinh giao cảm ngực.
- Sự lan tỏa của bệnh lý ác tính.
- Đau kéo dài sau mổ.
- Thoát vị phổi qua thành ngực: Hauser và cộng sự báo cáo hai trường hợp thoát vị phổi qua đường rạch nội soi lồng ngực sau một năm phẫu thuật

Lợi ích của phẫu thuật nội soi lồng ngực
- Là phương pháp xâm nhập tối thiểu, làm giảm đáng kể sự khó chịu và tai biến xẹp phổi hậu phẫu, biến chứng hô hấp sau mổ, làm giảm tình trạng nhiễm trùng phổi, rút ngắn thời gian nằm viện.
- Kỹ thuật nội soi với sự trợ giúp của camera, video cho phép quan sát tốt toàn bộ màng phổi thành và bề mặt của phổi hơn là quan sát qua một đường mở ngực nhỏ ở thành ngực như trong sinh thiết phổi hở.
- Rút ngắn thời gian mổ và gây mê vì phẫu thuật viên mất ít thời gian hơn cho việc đóng và mở ngực.
- Lý tưởng với những bệnh nhân bị rối loạn đông máu nhờ đường rạch tối thiểu (0,5 – 1cm).
- Viêm gan, AIDS đang là vấn đề quan tâm nhiều hiện nay đối với các nhân viên y tế. Phẫu thuật nội soi lồng ngực là một kỹ thuật không đụng chạm và làm giảm tối thiểu nguy cơ này.
- Ít đau sau mổ.
- Tính thẩm mỹ cao.

Phẫu thuật nội soi lồng ngực ở Việt Nam
- Năm 1996 phẫu thuật nội soi lồng ngực được áp dụng cắt thần kinh giao cảm ngực điều trị bệnh tăng tiết mồ hôi tay, viêm tắc động mạch ngoại vi mạn tính chi trên ở bệnh viện Bình Dân, bệnh viện Chợ Rẫy(37)
- Đến nay, đã có nhiều bệnh viện như Bệnh viện Trưng Vương, Bệnh viện Bạch Mai, Bệnh viện Nhân Dân Gia Định… thực hiện được phẫu thuật nội soi lồng ngực và áp dụng vào nhiều bệnh lý khác nhau.
- Bệnh viện Nhân dân Gia Định đã áp dụng cho các bệnh lý: tăng tiết mồ hôi tay, viêm tắc động mạch ngoại biên mạn tính chi trên, tràn khí màng phổi tự phát, tràn máu màng phổi, u trung thất, u phổi nhỏ ngoại biên chưa rõ bản chất(35)
- Bệnh viện Chợ Rẫy áp dụng phẫu thuật nội soi lồng ngực điều trị các bệnh: Viêm tắc động mạch ngoại biên mạn tính chi trên, đổ mồ hôi tay, kén khí phổi vỡ, máu đông khoang màng phổi, u trung thất, u phổi(14, 15)
- Bệnh viện Bình Dân: áp dụng phẫu thuật nội soi lồng ngực điều trị các bệnh đổ mồ hôi tay, viêm tắc động mạch ngoại biên mạn tính chi trên, mở cửa sổ màng tim
- Bệnh viện Trưng Vương: áp dụng phẫu thuật nội soi lồng ngực cắt thần kinh giao cảm ngực điều trị đổ mồ hôi tay
- Bệnh viện Bạch Mai Hà Nội: áp dụng phẫu thuật nội soi lồng ngực cắt chuỗi hạch giao cảm ngực điều trị tăng tiết mồ hôi tay
- Năm 2004, bệnh viện Đại học Y dược Thành phố Hồ Chí Minh triển khai phẫu thuật Nội soi Lồng ngực trong nhiều lĩnh vực: Thám sát và đánh giá khả năng phẫu thuật triệt để các khối u trung thất, cắt u tuyến ức để điều trị bệnh nhược cơ, phân loại giai đoạn trong ung thư phổi, điều trị tràn khí màng phổi tự phát nguyên phát v.v…đạt được nhiều kết quả khả quan.
- Vấn đề còn tồn tại đến ngày nay: chưa có một nghiên cứu nào toàn diện về phẫu thuật nội soi lồng ngực nhằm tìm ra:
- Chỉ định phẫu thuật nội soi lồng ngực trong giai đoạn hiện nay phù hợp với trình độ phẫu thuật viên và trang thiết bị y tế của Việt nam.
- Phác đồ tiến hành phẫu thuật nội soi lồng ngực.
- Triển khai phẫu thuật nội soi lồng ngực trong cấp cứu.
- Kế hoạch đào tạo phẫu thuật viên nội soi lồng ngực.


            P.Gs-Ts-Bs. Nguyễn Hoài Nam
                (Trường ĐH Y Dược Tp.HCM)

Thứ Sáu, 12 tháng 8, 2011

Bệnh viện đa khoa khu vực Bắc Bình Thuận triển khai phẫu thuật nội soi ổ bụng

Ngày 11-12/08 được sự giúp đỡ của các Bác sỹ bệnh viện Trưng Vương, bệnh viện đa khoa khu vực Bắc Bình Thuận - tỉnh Bình Thuận đã triển khai phương pháp phẫu thuật nội soi ổ bụng - mổ thị phạm thành công 2 ca ruột thừa (02 mổ này hoàn toàn miễn phí)
Theo Bs Nguyễn Văn Cường, giám đốc bệnh viện thì đây là địa phương đầu tiên ở Bình Thuận chỉ sau bệnh viện tỉnh là  triển khai hệ thống nội soi ổ bụng. Việc đưa hệ thống phẫu thuật nội soi vào sử dụng góp phần nâng cao chất lượng khám chữa bệnh cho nhân dân, đặc biệt là những người nghèo và bà con dân tộc ở vùng đất còn khó khăn này.
Hệ thống phẫu thuật nội soi được sử dụng tại bệnh viện là của hãng Richard Wolf (Đức) do công ty  cung cấp.

Dưới đây là một số hình ảnh của buổi chuyển giao này.
Chuẩn bị bệnh nhân trước khi mổ


Quá trình mổ
Ca mổ được truyền trực tiếp ra ngoài thu hút được sự quan tâm đặc biệt của  bà con nhân dân nơi đây 

VIDEO PHẪU THUẬT NỘI SOI Ổ BỤNG TẠI BV ĐKKV BẮC BÌNH THUẬN

Thứ Sáu, 5 tháng 8, 2011

Thứ Ba, 2 tháng 8, 2011

Lắp đặt hệ thống nội soi Tai-Mũi-Họng tại 4 huyện của tỉnh Bạc Liêu


Từ ngày 20-22/07/2011, Công ty chúng tôi phối hợp với Chi nhánh Công ty CP Amerpharco tại TP. Hồ Chí Minh đã triển khai lắp đặt 04 hệ thống khám Tai Mũi Họng  Richard Wolf  tại các bênh viện đa khoa huyện Hồng Dân, Phước Long, Đông Hải và Vĩnh Lợi thuộc tỉnh Bạc Liêu.
Các thiết bị này nằm trong dự án chương trình mục tiêu quốc gia nâng cấp trang thiết bị y tế cho khu vực Đồng Bằng Sông Cửu Long. Việc lắp đặt giàn hệ thống nội soi tại các khu vực này mở ra hướng tiếp cận các trang thiết bị y tế hiện đại mới đồng thời nâng cao chất lượng khám chữa bệnh cho bà con nhân dân của các huyện còn khó khăn này của tỉnh Bạc Liêu

Dưới đây là một số hình ảnh trong mấy ngày lắp đặt và chuyển giao này: